MỚI NHẤT!

Đọc nhanh >>

Dự thảo Nghị định thu phí khí thải của doanh nghiệp sản xuất: Không để tình trạng phí chồng thuế

Bộ Tài chính đang lấy ý kiến dự thảo Nghị định quy định phí bảo vệ môi trường đối với khí thải của DN sản xuất. Nhiều ý kiến cho rằng, cần làm rõ khoản thu này.

Tạo nguồn thu mới cho ngân sách

Theo dự thảo, trước mắt, những đơn vị bị thu phí bảo vệ môi trường (BVMT) khí thải là các cơ sở nằm trong danh sách các dự án, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có xả khí thải quy định tại Nghị định 08/2022/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn chi tiết về luật BVMT. Cụ thể bao gồm: Sản xuất gang thép, luyện kim; hóa chất vô cơ cơ bản, phân bón vô cơ và hợp chất nitơ; lọc hóa dầu; tái chế, xử lý chất thải rắn sinh hoạt; sản xuất than cốc, khí than; nhiệt điện; xi măng...

Về mức phí, Bộ Tài chính trình Chính phủ quy định xây dựng mức phí gồm 2 phần. Thứ nhất, phí cố định thu đối với mọi cơ sở xả khí thải là 3 triệu đồng/năm; mức phí cố định được quy định theo năm, cũng có thể nộp theo quý. Thứ hai, phí biến đổi được thu bổ sung đối với 4 chất gây ô nhiễm môi trường có trong khí thải (gồm bụi tổng, NOx, SOx, CO) với mức thu từ 500 - 800 đồng/tấn đối với từng chất.

Dự thảo Nghị định thu phí khí thải của doanh nghiệp sản xuất: Không để tình trạng phí chồng thuế - Ảnh 1.

Nhà máy nhiệt điện sẽ phải nộp thêm phí khí thải - Ảnh minh họa

Theo Bộ Tài chính, hiện, ô nhiễm môi trường không khí, nhất là tại các đô thị lớn, đang có xu hướng ngày càng tăng; có thời điểm, ô nhiễm môi trường không khí ở mức báo động. Một trong những nguyên nhân của tình trạng này là do hoạt động xả khí thải của các cơ sở xả thải và phương tiện giao thông vận tải. Phần lớn tổ chức, cá nhân xả thải gây ô nhiễm môi trường không khí chưa ý thức đầy đủ về trách nhiệm của mình trong BVMT không khí. Vì vậy, cơ quan này nhận định, việc nghiên cứu, xây dựng Nghị định phí BVMT đối với khí thải là cần thiết, nhằm thể chế hóa chủ trương của Đảng và Chính phủ, kiện toàn hệ thống pháp luật về phí, phù hợp với đòi hỏi từ thực tiễn và nhằm từng bước nâng cao ý thức BVMT của tổ chức, cá nhân xả thải và toàn xã hội cũng như tạo nguồn thu mới cho ngân sách nhà nước, bổ sung nguồn lực cho công tác BVMT.

Dự kiến, khi thực hiện chính sách này, sẽ làm tăng thêm khoảng 1.200 tỷ đồng/năm cho ngân sách nhà nước. Thực tế, phần lớn các doanh nghiệp (DN) dự kiến phải nộp phí BVMT đối với khí thải đều đang nộp phí BVMT đối với nước thải công nghiệp. Do đó, sẽ không phát sinh đáng kể chi phí thu, nộp đối với cơ quan, tổ chức và cá nhân liên quan.

Liệu phí có chồng thuế?

Thực tế trong hơn 10 năm qua cho thấy, Việt Nam đã triển khai thu thuế BVMT với 8 nhóm sản phẩm như xăng, dầu, mỡ, nhờn; than đá; túi nilon… Theo Bộ Tài chính, từ khi áp dụng thuế BVMT vào năm 2012, tổng số thu từ sắc thuế này liên tục tăng. Ngoài ra, còn có một số phí BVMT như đối với nước thải công nghiệp và nước thải sinh hoạt, chất thải rắn, khai thác khoáng sản… Có thể thấy, các DN sản xuất đang phải nộp khá nhiều loại phí lẫn thuế BVMT.

Không chỉ DN, ngay cả người dân cũng đang phải nộp nhiều loại thuế, phí BVMT như phí vệ sinh môi trường (thu gom và xử lý rác thải tại đô thị); thuế BVMT thông qua mặt hàng xăng, dầu, mỡ nhờn hay khi sử dụng than đá, túi nilon… Trong đó, thuế BVMT đối với xăng gây nhiều tranh cãi vì đây là mặt hàng thiết yếu. Đặc biệt, trong những thời điểm người dân và DN đối diện khó khăn, vẫn phải “gánh” thêm từ 600 - 2.000 đồng thuế BVMT/lít xăng dầu tùy loại. Ngoài ra, từ đầu năm 2024, thuế BVMT đối với xăng dầu, mỡ nhờn sẽ trở lại mức trần, 2.000 đồng/lít đối với các mặt hàng dầu (trừ dầu hỏa) và 3.000 đồng/lít nhiên liệu bay, 4.000 đồng/lít xăng (trừ xăng ethanol).

Từ năm 2012 - khi áp dụng thu thuế BVMT, tổng số thu từ sắc thuế này liên tục tăng, từ 11.160 tỷ đồng (năm 2012) đã tăng gấp 6 lần, lên 68.926 tỷ đồng (năm 2019); trong đó, thuế BVMT với xăng dầu chiếm 90%. Điều đáng nói, số thu tăng nhưng số chi lại bị đánh giá là chưa minh bạch. Theo quy định, các loại thuế, phí BVMT dù đưa về ngân sách trung ương hay địa phương, tất cả phải được công bố công khai hàng năm để người dân được biết. Tuy vậy, trong thực tế, cử tri một số địa phương đã nhiều lần đề cập vấn đề minh bạch trong thu và chi liên quan thuế, phí BVMT, song đến nay chưa có bản thông tin nào rõ ràng.

Bộ Tài chính từng công bố trong giai đoạn 5 năm (từ 2012 – 2016) chi khoảng 131.857 tỷ đồng, trung bình mỗi năm trong giai đoạn đó chỉ chi hơn 26.000 tỷ đồng cho môi trường. Số chi không cụ thể nhưng mức chi với mục đích BVMT nếu so với mức thu rất ít. Trong một lần trả lời cử tri, Bộ Tài chính giải thích: Các khoản thu từ thuế, phí, trong đó, có thuế BVMT, đều được tổng hợp vào ngân sách nhà nước. Đây là khoản thu mang tính đối giá và hoàn trả trực tiếp. Việc sử dụng, quản lý khoản thu này cũng được thực hiện theo quy định luật ngân sách nhà nước và các văn bản quy phạm pháp luật được Quốc hội phê duyệt hàng năm.

Riêng mặt hàng xăng dầu đã chịu thuế BVMT, về nguyên tắc là để BVMT nhưng giờ đây, Bộ Tài chính vẫn muốn thu phí khí thải với nhà máy lọc dầu, cũng với mục đích BVMT. Theo các chuyên gia, như vậy là phí chồng thuế.

Cần minh bạch trong sử dụng các nguồn thu

TS. Tô Hoài Nam - Tổng thư ký Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam - cho rằng, việc thu phí môi trường là đúng đắn, tuy nhiên, cần phải đúng lúc, đúng thời điểm. Trong điều kiện và thời điểm hiện nay, nếu áp dụng ngay thì không nên. “Môi trường là vấn đề lâu dài, nếu thu trước một năm, chưa hẳn đã tạo nên chuyển biến tích cực. Lúc này, chúng ta nên hỗ trợ cho DN. DN hiện nay đang rất khó khăn. Quan điểm của tôi phải sang năm 2025 hãy áp dụng” - TS Tô Hoài Nam nhấn mạnh. Tuy nhiên, cần phải minh bạch trong sử dụng nguồn thu cũng như cần chi tiết, cụ thể mức thu phí của từng ngành hàng. Mức thu càng cụ thể, chi tiết sẽ càng thể hiện sự minh bạch của chính sách và đảm bảo tính công bằng...

PGS.TS Ngô Trí Long - nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu thị trường giá cả (Bộ Tài chính) - băn khoăn: Nếu dự thảo thu phí khí thải được thông qua, lại làm tăng chi phí mới cho DN. Như vậy, thời điểm áp dụng chưa phù hợp, cần xem xét lại. Chưa kể, chính sách thuế hay phí phải mang tính công bằng; nếu chỉ thu phí những cơ sở sản xuất được nêu tên trong đợt đầu tiên này, những đơn vị còn lại tính như thế nào?

PGS. TS Ngô Trí Long cũng đặt ra câu hỏi, chúng ta đã triển khai thu nhiều loại thuế, phí BVMT đối với nhiều sản phẩm, dịch vụ trong thời gian qua, nhưng đã có báo cáo đánh giá nào về hiệu quả trong công tác BVMT liên quan hay không?

Ví dụ, Bộ Tài chính dẫn chứng hoạt động thu phí khí thải tương tự như các DN đã nộp phí nước thải thì hàng năm, số phí này có được công bố rõ ràng mức thu - chi và hiệu quả mức chi đối với việc giảm thiểu nước thải gây ô nhiễm môi trường ở các địa phương ra sao hay không?

PGS.TS Ngô Trí Long - nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu thị trường giá cả (Bộ Tài chính):

Trước khi áp dụng khoản thu mới, Bộ Tài chính cần có đánh giá cụ thể về số thu các loại thuế, phí BVMT và hiệu quả trong thời gian qua đối với công tác này. Chỉ khi thấy được hiệu quả, mới nhận được sự đồng thuận cao từ người dân.


Theo Thu Hường

Công thương

Trở lên trên