MỚI NHẤT!

Đọc nhanh >>

Thương mại càng phát triển, tắc nghẽn quanh các cửa khẩu quốc tế càng cao

Báo cáo của Ngân hàng Thế giới cho thấy hiện trạng phát triển không đồng đều của kết cấu hạ tầng giao thông trên cả nước với tình trạng tắc nghẽn tại các cửa khẩu lớn và mất cân đối cung - cầu nghiêm trọng.

Ngày 15-1, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam tổ chức Lễ công bố Báo cáo Phát triển Việt Nam: Kết nối vì Phát triển và Thịnh vượng chung với sự tham dự của Phó Thủ tướng Chính phủ Vương Đình Huệ.

Thương mại càng phát triển, tắc nghẽn quanh các cửa khẩu quốc tế càng cao - Ảnh 1.

Báo cáo Phát triển Việt Nam 2019 với tiêu đề "Kết nối vì Phát triển và Thịnh vượng chung" cùng với một trong những báo cáo đầu vào "Việt Nam: Kết nối chuỗi giá trị nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh thương mại" được công bố sáng 15-1 đưa đến bức tranh tổng quan về kết nối giao thông của Việt Nam nhằm hỗ trợ 3 mục tiêu phát triển quan trọng của quốc gia, bao gồm hội nhập , tăng trưởng bao trùm và khả năng chống chịu.

Theo WB, phát triển cơ sở hạ tầng kết nối và logistics hiệu quả đóng vai trò quan trọng nhằm giảm chi phí thương mại và giúp Việt Nam hội nhập hơn nữa với thị trường quốc tế và nội địa. Để hiện thực hóa mục tiêu này, cần có cách tiếp cận mới trong lập kế hoạch và đầu tư thêm cho các tài sản hạ tầng kết nối chiến lược, theo báo cáo mới công bố của Ngân hàng Thế giới.

12 cửa khẩu bao gồm: Sân bay Nội Bài, sân bay Tân Sơn Nhất, tổ hợp cảng biển TP HCM, tổ hợp cảng biển Hải Phòng, tổ hợp cảng biển Vũng Tàu, cảng biển Cái Lân (tỉnh Quảng Ninh), cảng biển Tiên Sa (TP Đà Nẵng), tổ hợp cửa khẩu biên giới Lạng Sơn, tổ hợp cửa khẩu Quảng Ninh, tổ hợp cửa khẩu Lào Cai, tổ hợp cửa khẩu Quảng Trị và tổ hợp cửa khẩu Tây Ninh

Ông Ousmane Dione, Giám đốc Quốc gia WB tại Việt Nam, cho biết: "Sự thay đổi nhanh chóng của các mô hình thương mại quốc tế và tiêu dùng nội địa cùng với rủi ro thiên tai ngày càng tăng sẽ ảnh hưởng đến nhu cầu kết nối trong tương lai của Việt Nam… Nâng cấp hệ thống kết nối, không chỉ bao gồm kết cấu hạ tầng mà còn cả dịch vụ vận tải và logistics, bằng chính sách và đầu tư đúng sẽ giúp Việt Nam tiến xa hơn trong việc tăng cường hội nhập, phát triển bao trùm và nâng cao khả năng chống chịu."

Báo cáo cho thấy hiện trạng phát triển không đồng đều của kết cấu hạ tầng giao thông trên cả nước với tình trạng tắc nghẽn tại các cửa khẩu lớn và mất cân đối cung - cầu nghiêm trọng. Dòng chảy giao thương của Việt Nam tập trung tại 1/4 tổng số cửa khẩu quốc tế, bao gồm 2 sân bay, 5 cảng biển và 5 cửa khẩu đường bộ. Các cửa khẩu này xử lý tới 86% giá trị thương mại trong năm 2016. Thương mại phát triển cũng đồng nghĩa với tình trạng tắc nghẽn quanh các cửa khẩu quốc tế và các điểm hải quan qua biên giới.

Hệ thống giao thông nội địa hiện nay phụ thuộc rất lớn vào vận tải đường bộ, chiếm 3/4 tổng khối lượng hàng hóa. Việt Nam chưa tận dụng được mạng lưới sông ngòi tự nhiên rộng khắp do hệ thống cảng và bến thủy chưa phù hợp để đáp ứng khối lượng hàng hóa lớn hơn. Việc sử dụng phương thức vận chuyển hàng hóa trong container, cho phép vận chuyển đa phương thức hiệu quả, còn tương đối hạn chế. Bên cạnh đó, mạng lưới đường sắt dài 2.600 km của Việt Nam vẫn còn khá lạc hậu.

Báo cáo nhấn mạnh các bước Việt Nam có thể thực hiện để giải quyết tình trạng phân mảnh trong kết nối nhằm tạo thuận lợi hơn cho giao thương quốc tế.

Sắp xếp lại mạng lưới các cửa khẩu quốc tế bằng cách lồng ghép tư duy mạng lưới trong quá trình quy hoạch và phát triển các cửa ngõ thương mại, loại bỏ quy hoạch phi tập trung hiện tại.

Thay đổi định hướng quy hoạch giao thông và không gian để hỗ trợ các chuỗi giá trị quan trọng qua việc lập hệ sinh thái mới kết nối giữa thương mại và các tuyến vận tải có vai trò quan trọng trong việc tạo thuận lợi cho chuỗi cung ứng từ vận chuyển nguyên vật liệu đầu vào đến thành phẩm cuối cùng.

Tạo ra các vùng kinh tế trọng điểm dọc theo hành lang mới thông qua việc cho phép phát triển có trọng tâm các nút vận chuyển giá trị cao để phục vụ hoạt động năng suất lớn.

Báo cáo cũng nêu bật một vấn đề thường ít được chú ý, đó là mức độ lạc hậu của hệ thống giao thông và logistics trong nước so với nhu cầu ngày càng phức tạp từ tầng lớp tiêu dùng trung lưu. Thu nhập tăng lên đồng nghĩa với yêu cầu lớn hơn về các dịch vụ tiêu chuẩn cao như mức độ an toàn, đúng hẹn, độ tươi mới và truy xuất nguồn gốc với mức giá cạnh tranh.

Mặc dù nhu cầu của người tiêu dùng đã chuyển biến nhanh chóng nhưng chuỗi cung ứng lại hầu như không thay đổi. Phần lớn người tiêu dùng vẫn chủ yếu mua sắm tại các chợ truyền thống. "Hệ thống chuỗi cung ứng lạnh" vận chuyển và lưu trữ thực phẩm dễ hỏng từ trang trại đến người tiêu dùng vẫn còn phân mảnh và chủ yếu phục vụ thị trường xuất khẩu. Báo cáo cho biết, hiện trạng kém phát triển của chuỗi cung ứng thực phẩm dẫn đến nhiều hệ lụy như thất thoát về thực phẩm - ước tính tương đương 2% GDP của Việt Nam, bên cạnh tỷ lệ mắc bệnh do thực phẩm cao và ô nhiễm môi trường.

Sự phát triển nhanh chóng của thương mại điện tử cũng tạo ra nhu cầu ngày càng tăng đối với các loại hình dịch vụ logistics mới bao gồm kết nối nhận hàng, giao hàng tận nơi và giao hàng chặng cuối, đặc biệt là các bưu kiện cỡ nhỏ, giá trị thấp. Điều này đặt ra thách thức lớn hơn nữa cho các thành phố của Việt Nam vốn đã quá tải với tình trạng tắc nghẽn giao thông nghiêm trọng và mật độ xây dựng cao.

Các giải pháp chính

Báo cáo cũng đề xuất các giải pháp chính nhằm phát triển dịch vụ vận tải và logistics để hội nhập tốt hơn thị trường nội địa.

Nâng cấp kết nối mềm bằng cách tạo ra một môi trường pháp lý thuận lợi và cung cấp các ưu đãi về tài chính để hỗ trợ sự phát triển của các nhà cung cấp dịch vụ logistics và đẩy mạnh ứng dụng công nghệ.

Rà soát kết cấu hạ tầng và dịch vụ logistics tại các thành phố bằng cách lồng ghép quy hoạch không gian hạ tầng thị trường và các cơ sở logistics trong công tác lập quy hoạch đô thị sắp tới.

Báo cáo cũng đề xuất các giải pháp nhằm cải thiện khả năng chống chịu, mức độ tin cậy của hệ thống giao thông và đảm bảo những khu vực tụt hậu nhất cũng có kết nối.

Báo cáo Phát triển Việt Nam là chuỗi báo cáo và phân tích chính sách chủ đạo do WB tại Việt Nam. Báo cáo năm nay được biên soạn với sự hỗ trợ từ Chính phủ Australia, trong khuôn khổ Giai đoạn 2 Chương trình Đối tác Chiến lược giữa Australia và Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam (ABP2).


Theo D.Ngọc

Người lao động

CÙNG CHUYÊN MỤC

XEM
Trở lên trên