MỚI NHẤT!

Đọc nhanh >>

Kinh nghiệm xử lý nợ xấu của các nước - Kỳ 3: Thái Lan

AMC là một trong những giải pháp mà Thái Lan đã áp dụng khá hiệu quả từ thời kỳ khủng hoảng cho đến nay.

Khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1997 đã gây nhiều tác động nặng nề lên hệ thống tài chính ở Thái Lan, đặc biệt là khu vực ngân hàng. Nợ xấu của khu vực ngân hàng liên tục gia tăng cuối năm 1997 đạt mức cao kỷ lục 46% trên tổng dư nợ tín dụng đã tạo áp lực cho Chính phủ phải nhanh chóng đưa ra những giải pháp để kiểm soát vấn đề này.

Chính phủ Thái Lan đã thực hiện xử lý nợ xấu bằng 3 giải pháp cơ bản. Các giải pháp này bao gồm bơm vốn trực tiếp, AMC và trung gian tái cơ cấu nợ (Corporate Debt Restructuring Committee – CDRC), trong đó AMC là một trong những giải pháp mà Thái Lan đã áp dụng khá hiệu quả từ thời kỳ khủng hoảng cho đến nay.

Quá trình xử lý nợ xấu của Thái Lan dựa trên các AMC chia thành 2 thời kỳ phân tán và tập trung, trong đó mô hình phân tán có sự tham gia của cả AMC sở hữu nhà nước (hỗ trợ bởi Quỹ Phát triển các Định chế tài chính – FIDF) và các AMC sở hữu bởi ngân hàng tư nhân được áp dụng lần lượt năm 1998 và 1999; mô hình AMC tập trung dựa trên sự thành lập của Công ty quản lý Tài sản Thái Lan (Thai Asset Management Corporation – TAMC) vào năm 2001. Các cơ chế AMC có nhiều điểm khác nhau ở nguồn gốc tổ chức, điều khoản và điều kiện các tài sản chuyển giao.

Đặc điểm của 3 cơ chế AMC:


Phân tán và định hướng thị trường

Phân tán và định hướng nhà nước

Tập trung và định hướng nhà nước

Số AMC

12 AMC hoạt động

4 AMC thuộc 5 ngân hàng sở hữu nhà nước (BAM, PAM, SAM, và Radhanasin AMC)

TAMC

Sở hữu

Các ngân hàng tư nhân

FIDF

Bộ Tài Chính

Mục tiêu/ động cơ thành lập

Nguồn nhân lực xử lý nợ xấu ở các cơ quan không đủ và để tránh sự can thiệp về chính trị

Giải quyết nợ xấu và cơ cấu lại nguồn vốn ngân hàng

Xử lý nợ xấu, tránh các thủ tục pháp lý và tòa án

Cơ sở hoạt động

Nợ xấu của các ngân hàng mẹ được chuyển sang AMC con

FIDF đảm bảo các trái phiếu được phát ra để mua lại nợ xấu từ các ngân hàng nhà nước (NHNN)

TAMC phát hành trái phiếu để tạo nguồn vốn mua nợ xấu của các TCTD. Nguyên tắc giải quyết tài sản xấu là Chia sẻ lời – lỗ giữa TAMC và các TCTD

Định giá chuyển giao tài sản trung bình (% của giá trị ban đầu hoặc giá trị sổ sách)

Trung bình 53%

Không có tiêu chí lựa chọn và định giá cụ thể. Ở mức 33% cho BAM, và giá thực tế cho SAM và PAM

Dựa trên giá trị của tài sản bảo đảm (33,2%)

Nợ xấu được chuyển (% tổng dư nợ)

Rất nhỏ

Đáng kể (52% cho KTB)

Tất cả tài sản từ mức dưới chuẩn trở xuống, với tổng giá trị là 784,4 tỷ Baht

Tái cơ cấu tài sản (% nợ xấu được chuyển)

Tái cơ cấu chậm

Không xác định

73,46% tính đến tháng 6/2003

Lợi ích từ việc chuyển nợ xấu

Không đáng kể do nợ xấu không tách nợ xấu khỏi bảng cân đối của các ngân hàng. Các ngân hàng phải duy trì mức an toàn vốn cho cả nợ xấu hiện có và các AMC, khiến cho tài sản cần đáp ứng tăng gấp đôi

Đáng kể vì cho phép các ngân hàng đáp ứng nhu cầu cơ cấu lại nguồn vốn

Đảng kể vì các ngân hàng có thể tách tài sản xấu khỏi bảng cân đối. Lời – Lỗ được chia sẻ theo sự sắp xếp giữa TAMC và các tổ chức tài chính
































AMC phân tán – Kết hợp giữa định hướng nhà nước và định hướng thị trường

Mô hình AMC phân tán được áp dụng theo cách mỗi ngân hàng thành lập AMC riêng và nợ xấu của các ngân hàng sẽ được chuyển sang những AMC đó.

Đối với khu vực nhà nước, các AMC sau khi thành lập sẽ phát hành trái phiếu (có sự đảm bảo của FIDF) để mua nợ xấu từ các ngân hàng sở hữu nó, trái phiếu không bán hết sẽ được FIDF mua lại, còn nợ xấu sẽ được bán ra ngoài thị trường cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Nhưng đối với khu vực tư nhân, sau khi nợ xấu được chuyển xuống các AMC trực thuộc theo giá trị thị trường hoặc giá trị sổ sách ròng, ngân hàng sẽ thuê các công ty quản lý tài sản nước ngoài thực hiện quản lý các tài sản của AMC với mức phí từ 2-5% trên giá trị tài sản ròng.

Tuy nhiên, giải quyết nợ xấu thông qua mô hình AMC phân tán không thành công khi nợ xấu ở các AMC của ngân hàng tư nhân không xử lý được, thậm chí mức an toàn vốn mà các ngân hàng phải duy trì đã tăng lên gấp đôi. Còn ở các ngân hàng của nhà nước, mục tiêu chủ yếu của chuyển hóa tài sản là cơ cấu lại nguồn vốn ngân hàng chứ không trọng tâm vào tối đa hóa giá trị hoàn lại của các khoản nợ xấu.

AMC tập trung – theo định hướng nhà nước

Cơ chế hoạt động: Hội đồng thành viên của TAMC bao gồm ủy ban kiểm toán và các thành viên bên ngoài. Nguồn vốn hoạt động của TAMC chủ yếu từ phát hành trái phiếu chiếm 96%, còn lại 0,4% là hỗ trợ từ Chính phủ. TAMC thực hiện phát hành trái phiếu có thời hạn 10 năm với sự đảm bảo của FIDF để mua nợ xấu. Tài sản được chuyển giao sẽ định giá theo giá trị tài sản bảo đảm. Việc xử lý nợ xấu sẽ dựa trên nguyên tắc chia sẻ lời – lỗ giữa TAMC và các TCTD bán nợ. Nếu nợ xấu có thể sinh lời thì ngân hàng bán nợ sẽ được hưởng 80% phần lợi nhuận, còn nếu nợ xấu tạo lỗ thì ngân hàng đó sẽ phải bán chịu 20% khoản lỗ ấy.

Giải pháp xử lý: Hầu hết nợ xấu của các ngân hàng chuyển sang TAMC quản lý xuất phát từ các doanh nghiệp bất động sản và sản xuất. Đối với các khoản vay có thế chấp không còn khả năng trả nợ, TAMC thực hiện tịch thu tài sản thế chấp và bán thanh lý để hoàn phần vốn vay dựa trên nguyên tắc chia sẻ lời – lỗ. Đối với các khoản vay mà TAMC nhận thấy còn khả năng trả nợ, TAMC đã chủ động phối hợp với các cơ quan đại diện cho các khu vực kinh tế để đưa ra các giải pháp khôi phục lại hoạt động sản xuất kinh doanh của các khu vực đó, tạo nguồn vốn trả nợ.

Các giải pháp điển hình lần lượt được thực hiện khá toàn diện theo thứ tự ưu tiên như sau:

Một là, đối với các khoản vay thuộc ngành bất động sản: TAMC phối hợp chặt ché với Cơ quan Nhà ở Quốc gia để chọn lọc các dự án còn nhiều tiềm năng và cơ quan này sẽ hỗ trợ phát triển và quản lý bán dự án; riêng vấn đề nguồn vốn đầu tư cho dự an, TAMC làm việc với hai TCTD là BankThai và Ngân hàng Tiết kiệm Chính phủ để cung cấp tài chính cho các dự án trên phát triển, hoàn thiện và bán ra thị trường trong thời gian ngắn nhất có thể.

Hai là, việc tái cấu trúc hệ thống ngân hàng cần được triển khai đồng bộ với xử lý nợ xấu bao gồm những nội dung liên quan đến kiểm kê đánh giá các khoản nợ, mua bán nợ xấu và đóng cửa các ngân hàng yếu kém, đồng thời hỗ trợ thanh khoản cho các ngân hàng tốt.

Ba là, phát triển thị trường trái phiếu, mở rộng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu vực ngân hàng. Đây được coi là kênh huy động vốn hữu hiệu trong thời điểm nguồn lực nội tại của ngân hàng trong nước gặp khó khăn.

Bốn là, cần xây dựng mạng an toàn tài chính quốc gia, trong đó có phân định trách nhiệm và cơ chế phối hợp hiệu quả giữa các thành viên như NHNN, Bộ Tài chính, Ủy ban giám sát Tài chính Quốc gia và Bảo hiểm tiền gửi.

Năm là, xây dựng và thực hiện các chính sách hỗ trợ của nhà nước cho các doanh nghiệp, khách hàng vay vốn và các TCTD như hỗ trợ về thuế, cơ chế chính sách, thủ tục pháp lý… trong quá trình xử lý nợ xấu.

Hà Phương

trangntm

Vnep

Trở lên trên